Thứ Ba, 6 tháng 2, 2018

ĐỪNG ĐẶT CÁC LM LÊN BỆ THỜ

  
    Đừng đặt các linh mục lên bệ thờ ....Cuối cùng đã có một vấn đề mà giáo hội chia rẽ của chúng ta có thể nhất trí. Người Công giáo thuộc mọi phái, bảo thủ hay tự do hay trung dung, đều thấy khó chịu về chủ nghĩa giáo quyền. Từ Đức Giáo hoàng Phanxicô cho đến hàng ghế cuối trong nhà thờ, từ giáo sư chủng viện cho đến các thừa tác viên, chúng ta đều đồng ý rằng chủ nghĩa giáo quyền đang làm méo mó sứ mạng mục vụ của giáo hội.  ..Và chủ nghĩa giáo quyền còn củng cố luận điệu của những người theo chủ nghĩa thế tục rằng hàng giáo sỹ Công giáo chẳng khác gì những nhân viên của giáo hoàng để áp đặt sự kiểm soát đạo đức ngặt nghèo bóp nghẹt bản năng ham muốn tự do và vui thú của con người.
---- Vậy hãy chấm dứt chủ nghĩa giáo quyền trong giáo hội.
Chắc chắn là thế. Sự đồng thuận về chuyện này quá rõ ràng. Thế mà, tôi còn nghe có tiếng nói, “đừng làm quá nhanh.”...Khối ung thư này đang làm suy yếu thế giới Công giáo, từ các cộng đoàn địa phương cho đến các văn phòng Vatican, nó đã có từ trong quá khứ và hiện đang tồn tại trong giáo hội, một điều chúng ta cần xem xét thật kỹ lưỡng. Vậy thì hãy bắt tay xét nghiệm nó nào.......Chủ nghĩa giáo quyền chỉ cần nhìn là biết, dù là ở mức độ giáo xứ hay trên hình biếm họa về giáo sỹ. Nhưng dù cho chúng ta có nhận ra, cũng khó lòng mà định nghĩa nó.,,.....Tôi thì thấy thế này. Chủ nghĩa giáo quyền là một thái độ có trong nhiều (chứ không phải tất cả) giáo sỹ, những người xem vị thế linh mục và giám mục của mình cao hơn vị thế môn đệ được rửa tội của Chúa Giêsu Kitô đang có trong họ. Khi làm thế, nảy sinh một tâm thức đặc quyền và tước vị trong suy nghĩ riêng và chung của các giáo sỹ. Điều này làm nảy sinh một nhóm những con người “ưu tú” trong giáo hội, nghĩ rằng mình không giống những tín hữu khác......Giáo sỹ rơi vào cám dỗ này không thể thấy được việc đó đang làm tê hoại nhân cách của họ, tê hoại khả năng kết nối ở tầm mức con người với những nhóm người khác trong đoàn dân Chúa. Trong tất cả những hoa trái chua cay của chủ nghĩa giáo quyền, thì việc mất khả năng kết nối với tha nhân này, chính là thứ gây tai hại nhất.
-- Khi một người được truyền chức thánh có thái độ bề trên với các giáo dân và những người mình gặp gỡ, thì vấn đề không còn đơn giản. Dạng mất liên kết này có thể là thứ tiêu diệt hết những nỗ lực của một linh mục muốn xây dựng tâm thức cộng đoàn trong giáo xứ....Và thường giáo dân khó lòng thấy thoải mái với một linh mục giáo quyền. Nói đơn giản là họ không thấy được cách tiếp cận của một người “cha”. Cũng có thể nói như thế về các giám mục quá dễ dãi nghĩ mình như những quân vương một vùng được Chúa tuyển chọn. Mối liên hệ của các giám mục này với các linh mục và giáo dân không còn là cung cách của một mục tử.
Nơi họ không có mùi chiên.
Mà đó lại chính là những gì mà các giáo sỹ giáo quyền muốn. Họ tin rằng xa cách một chút với những người không có chức thánh là một việc phù hợp và đúng đắn. Dĩ nhiên, linh mục không cần phải chén thù chén tạc xuề xòa với giáo dân, mối liên hệ linh mục-giáo dân cần có sự trưởng thành và cẩn trọng. Hầu hết các giáo sĩ đều biết những đòi hỏi của đàn chiên mình. Chắc chắn, các giáo sĩ cần phải bảo vệ sự riêng tư của mình, và tìm thời gian “ở một mình.” Nhưng bản chất của chủ nghĩa giáo quyền là phóng đại nhu cầu này. Nó nảy sinh sự giả tạo và cấp bậc giữa các giáo sỹ và giáo dân. Như thế, là thiếu mất đi sự gì đó...Các linh mục và giám mục (thậm chí là phó tế) dần thấy uy thế của mình trong việc cử hành bí tích và giảng dạy, chính là nền tảng căn tính của mình. Và khi đó, họ không còn thấy được sự thật rằng sức mạnh của Giáo hội xét tận cùng chính là nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Họ nói, “Chúng tôi là giáo sỹ, anh chị em thì không.”.....Nhiều năm trước, khi làm tổng đại diện, tôi có nói chuyện với một viên chức giáo dân cấp bậc cao trong giáo phận, ông sợ rằng mình đang ngày càng dấn vào hệ thống này, sợ mình trở nên “như giáo sỹ” Tôi bảo ông đừng lo. Việc ông cảm nhận được mối nguy đó, chính là cái bảo vệ cho ông rồi. Chúng tôi cũng thấy được nhiều đồng nghiệp giáo dân của ông có vẻ như không thấy được mối nguy đó. Những nhân viên mục vụ giáo dân này nghĩ mình là người trong hàng ngũ giáo sỹ. Và có thể nói đúng là thế. Như những người mục vụ được truyền chức thánh, lòng trung thành ban đầu của họ giờ hướng về giáo hội và thể chế hơn là về tin mừng và các tín hữu mà họ phục vụ. Thế nên, khối u chủ nghĩa giáo quyền, không chỉ giới hạn trong các giám mục, linh mục, phó tế. ....Văn hóa giáo giáo sỹ chính là cái nôi nảy sinh căn bệnh chủ nghĩa giáo quyền. Và hai cái này là hai thứ khác biệt nhau. Chúng ta phải hiểu được chuyện này, trước khi tìm cách mổ xẻ thêm về khối u chủ nghĩa giáo quyền. Hầu hết những dân lành nghề, chuyên nghiệp, đều phát triển một dạng văn hóa, một kiểu cư xử và lời nói đặc thù thể hiện đặc tính của những người trong hội. Một nền văn hóa như thế có thể vun đắp một tinh thần đoàn thể lành mạnh.
Thế nên văn hóa giáo sỹ không phải là vấn đề. Các linh mục thường nói về “huynh đệ chức thánh.” Họ cùng chia sẻ một nền đào tạo chủng viện. Họ hiểu được niềm vui và nỗi buồn trong việc mục vụ, sự tự do và cô đơn của đời sống độc thân, và trách nhiệm lớn lao của việc rao giảng Lời Chúa.
Nhưng một văn hóa giáo sỹ lành mạnh thì vun đắp sự khiêm nhượng và lòng biết ơn trong tâm hồn các phó tế, linh mục, và giám mục. Nó dẫn đưa người linh mục nói rằng, “Tôi là linh mục, nhờ ơn Chúa. Nhưng trước hết, tôi là môn đệ được rửa tội, cũng cần được mục vụ, cần được thương xót và tình bạn của các giáo dân.” ,..Tuy nhiên, khi văn hóa giáo sỹ thổi phòng vai trò và tầm hiểu biết của các thừa tác viên có chức thánh trong đời sống giáo hội, thì nó chính là mảnh đất màu mở để khối u chủ nghĩa giáo quyền lớn mạnh....Vậy chúng ta có thể làm gì để chấm dứt chủ nghĩa giáo quyền? Những bước sau sẽ xử lý khối u, hay ít nhất là giảm nhẹ đi chủ nghĩa giáo quyền:......Các giám mục, linh mục và phó tế được kêu gọi bởi Tin mừng, và bởi Đức Giáo hoàng Phanxicô, phải thấy được tư cách môn đệ và việc phục vụ là nền nền tảng cho mục vụ chức thánh. Phép rửa cho họ mọi phẩm giá họ cần. Nhiều linh mục hiểu điều này. Nhiều người vẫn chưa hiểu. Vậy các chủng viện cần dạy cho các chủng sinh rằng tư cách môn đệ được rửa tội bén rễ trong lời nguyện chính là nền tảng căn bản cho việc mục vụ linh mục.....Một số giáo sĩ nhất quyết rằng người ta phải gọi mình là “cha” hoặc là “đức cha.” (Trong tiếng Anh, có thể gọi linh mục là Father hoặc Monsignor, có thể gọi các giám mục hồng y với những tước rất uy quyền như Excellency hoặc Eminence). Các tước hiệu có vai trò của nó, nhưng ta không cần khăng khăng phải dùng nó. Chúng ta có thể thấy buồn cười khi một giáo dân cứ khăng khăng người ta phải gọi mình là bác sĩ, tiến sỹ, giáo sư, thẩm phán. Gọi một bác sĩ là là bác sĩ, thì hợp lý khi ta ở trong phòng khám hay bệnh viện, và gọi một linh mục là cha cũng hợp lý khi ở trong bối cảnh làm việc giáo xứ. Nhưng hầu hết mọi người sẽ nhíu mày khi người ta cứ nhất quyết lúc nào mình cũng phải được gọi bằng tước danh....Xem lại đời sống độc thân khiết tịnh bắt buộc. Đúng là chúng ta cũng thấy chủ nghĩa giáo quyền trong hàng giáo sỹ không độc thân của các giáo Đông phương. Nhưng những gánh nặng kéo theo đời sống độc thân, dẫn đến việc một số giáo sỹ thấy cần tước vị và đặc quyền, những nét đặc thù của chủ nghĩa giáo quyền.......Nhưng có người sẽ lập luận, chẳng phải chỉ trích chủ nghĩa giáo quyền là công kích hàng giáo sỹ? Lập luận của chất vấn này như sau: Khó lòng cường điệu hóa phẩm giá và sức mạnh thiêng liêng của chức linh mục. Cứ nghĩ về việc giáo dân thấy hình ảnh người linh mục khi dâng thánh lễ và tha tội. Một ơn gọi quá cao cả, đòi buộc người linh mục phải là người “khác hẳn.” Và khi “khác hẳn” thì cũng đi kèm với trách nhiệm và đặc quyền.;;;;Nói cách khác, lối nghĩ này chấp nhận chủ nghĩa giáo quyền như là bản chất tự nhiên trong người linh mục Công giáo, bởi họ thuộc về một đẳng cấp thiêng liêng cao quý. Và dù cao quý thì đi kèm với bổn phận, nhưng nó còn có sự vênh vang nữa...Đức Giáo hoàng Phanxicô đã đáp lại lối nghĩ này bằng cách nói rằng một linh mục không phải là một người được tách riêng hẳn ra với cộng đoàn. Đức Giáo hoàng tin rằng linh mục và giám mục phải có một tâm hồn sứ mạng, một điều tương phản với kiểu tâm hồn giáo quyền. Trong tông huấn Evangelii Gaudium (Niềm vui của Tin mừng), Đức Phanxicô đã viết rằng “một tâm hồn sứ mạng không bao giờ khép kín trong bản thân, không bao giờ lui về nơi an toàn riêng của mình, không bao giờ chấp nhận sự khắc nghiệt và thủ thế. Tâm hồn sứ mạng nhận ra rằng nó phải lớn lên trong nhận thức Tin mừng và trong nhận thức về những đường lối của Thần Khí, và nó luôn luôn làm tốt hết sức mình, ngay cả khi dẫm vào bùn đất trên đường.”....Đúng, hãy chấm dứt chủ nghĩa giáo quyền và theo gương của Đức Giáo hoàng không giáo quyền của chúng ta. Ngài liên tục nhắc nhở các giám mục, linh mục và phó tế rằng họ là những người dẫn đường cho đoàn dân lữ hành. Họ là những mục tử của lòng thương xót, với đôi giày lấm lem bùn đất.  ....J.B. Thái Hòa chuyển dịch
                                                    Nguồn tin: Phanxico


                              Hệ Thống Cố Định Legio trong đời sống tâm linh
          Để được chính thức đứng vào hàng ngũ hoạt động Legio. Người hội viên cần phải hứa tuân giữ kỷ luật “ Trông cậy Chúa, nhận con, dùng con và hôm nay  biến sự yếu  đuối của con thành sức mạnh. Con xin đứng vào hàng ngũ Legio và dám xin tuyên hứa trung thành phục vụ. Con xin hoàn toàn tuân kỷ luật. Kỷ luật liên kết con với đồng bạn. Tạo chúng con thành một đạo quân” ( TB Sl 170 – Chương 15 ).
Khi tuyên hứa là chúng ta hứa với Chúa Thánh Thần, bởi đó cho nên hội viên dù ở bất cứ cương vị nào cũng không thể phản bội. Kỷ luật trong Legio hết sức chặt chẽ và kỷ luật ấy được quy định trong một hệ thống gọi là Hệ Thống Cố Định “ Hội viên không có quyền thay đổi các quy luật hay cách thức thực hành. Hệ thống mô tả  đây là hệ thống của Legio. Mỗi thay đổi dù nhỏ bé đến đâu cũng không  tránh khỏi được biến đổi khác và không bao lâu tổ chức Legio chỉ còn là hữu danh vô thực. Một khi biết đơn vị nào thay đổi như vậy Legio sẽ không ngần ngại khai trừ đơn vị ấy dù họ đã thể hiện những công tác có giá trị” ( TB Sl 241 – Chương 20 ).
Thủ Bản quy định những điều không được phép thay đổi = Kinh nguyện không thay đổi “ Phải coi các kinh nguyện của Legio như cố định. Các lời cầu các Thánh cũng thế, không nên thêm bớt dù là thêm vị Thánh của nước mình, địa phương hoặc của riêng mình kể cả các sửa chữa hoặc thêm bớt  đang tranh luận” ( TB Sl  258) Chương 19 ). Về chương trình họp cũng không được thay đổi ( TB Sl 217 Chương 19 ). Đã gọi là quy luật  thì không được phép thay đổi dù chỉ là những chi tiết nhỏ bé chẳng hạn trong cách trưng dọn bàn thờ Đức Mẹ “ Mỗi phiên họp đều sắp đặt như nhau. Hội viên ngồi quanh chiếc bàn dài, đầu bàn dọn một bàn thờ nhỏ. Trên chiếc khăn trắng khổ rộng ta đặt  tượng Đức Mẹ Vô Nhiễm ( Mẫu hay làm phép lạ ) cao độ sáu tấc, hai bên hai bình hoa tươi. Trước mặt tượng đặt hai chân đèn với nến sáng. Cành Vexillum được đặt trước tượng độ 15 phân và xê về bên phải cũng quãng chừng ấy” ( TB Sl 189 Chương 18 ) ).
Chẳng những Thủ Bản quy định những chi tiết buộc phải tuân theo mà còn hướng dẫn  cách thực hiện “ Nơi nào muốn tránh cơn gió thổi tắt ngọn nến có thể dùng bầu thuỷ tinh để giữ ngọn nến nhưng không nên che khuất thân cây nến” ( TB Sl 189 Chương 18 ).
Những chi tiết buộc  tuân theo ấy hết sức cụ thể, chẳng hạn chỉ được phép làm Dấu Thánh Giá lúc nào trong trường hợp nào…Cha linh giám hoặc trưởng  đọc Kinh Mân Côi chục thứ nhất, thứ ba và thứ năm, Ngoài những quy định  cụ thể chi tiết ấy ra Legio còn  có quy luật cẩn mật, luật thi hành công tác ít nhất hai giờ mỗi tuần, luật về bầu cử  trong các cấp Hội Đồng v.v…
Đề ra luật thì dĩ nhiên cũng phải có người chịu trách nhiệm và trách nhiệm ấy trước hết thuộc về người trưởng “ Trưởng phải nhớ mình là đại diện của Legio để áp dụng đường lối Legio đến từng chi tiết. Làm đại diện không đúng trách nhiệm tức là thất tín với Legio. Toà án quân sự trần gian gọi đây là tội phản quốc và can phạm phải bị kết án rất nặng nề” ( TB Sl 371 Chương 34 ).
Việc tuân giữ kỷ luật là trách nhiệm của người trưởng. Thế nhưng để thi hành nhiệm vụ này thì cần có sự lãnh đạo của các cấp Hội Đồng “ Thành lập các cấp Hội Đồng của Legio chính là để bảo vệ nguyên vẹn. Bằng mọi giá các Hội Đồng này phải trung thành với nhiệm vụ đã nhận lãnh “ Hệ thống Legio là một hệ thống đẹp đẽ nhất ( Đức Gioan XXIII ).
“ Ta phải nhận nguyên vẹn hay vứt bỏ tất cả: bớt đi chỉ sinh yếu nhược, cắt xén chỉ làm què quặt. Nếu nhận tất cả chỉ trừ một điểm thôi là vô ý thức vì điểm nào cũng như điểm nào, có nó mới nên trọn vẹn” ( Đức hồng y Newman – Khái luận về phát triển  – TB Sl 244 Chương 20 ).
Những ai không hiểu về Legio sẽ cho rằng hội đoàn  này quá ….cứng ngắc, bắt phải tuân thủ đến cả những chi tiết nhỏ nhặt. Thế nhưng Thủ Bản cho biết tất cả sáu vị Giáo Hoàng đều đã duyệt cuốn Thủ Bản và cho rằng không cần gì phải thay đổi. Chẳng những không thay đổi mà đức Thánh cha Gioan XXIII còn nói “ Hệ Thống Legio là hệ thống đẹp nhất”. Một khi các vị lãnh đạo tối cao của Giáo Hội  đã thấy không  có chi cần thay đổi Thủ Bản thì làm sao hội viên chúng ta  lại cứ thay đổi điều này điều kia ?..Sở dĩ có những vi phạm  kỷ luật Legio như hiện nay đang thấy theo tôi đó là vì người ta đã không nhận ra được con đường nên Thánh hết sức độc  đáo của Legio “ Theo ý Legio sự trọn lành của hội viên không dựa vào chỗ tự mãn vì những kết quả thực sự hay bề ngoài nhưng chỉ căn cứ vào lòng trung thành từng nét với phương pháp Legio. Hội viên Legio chỉ xứng đáng với danh xưng khi họ biết tuân phục quy chế” ( TB Sl 142 Chương 11 ).
Con đường trọn lành của Đức Ki Tô là biết vâng theo Thánh Ý Thiên Chúa “ Chẳng phải mỗi kẻ nói cùng Ta rằng = Lạy Chúa, lạy Chúa  mà vào được Nước Trời đâu nhưng chỉ những kẻ biết vâng theo Thánh Ý Cha Ta mà thôi. Trong ngày đó nhiều người sẽ nói cùng Ta rằng = Lạy Chúa, lạy Chúa chúng tôi há chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri sao ? Nhân danh Chúa mà đuổi quỷ sao và nhân danh Chúa mà làm nhiều việc quyền năng sao ? Khi ấy Ta sẽ công bố với họ rằng Ta chẳng hề biết các ngươi. Hãy lìa khỏi mặt Ta, hỡi những quân gian ác” ( Mt 7, 21 -23 ).
Tại sao những việc người đời cho là lớn lao cả thể như nói tiên tri, đuổi quỷ, làm phép lạ v.v.. nhưng đối với Chúa lại là những việc làm ác ? Lý do bởi vì tất cả những việc ấy người ta chỉ làm theo ý riêng mình chứ chẳng phải theo ý Chúa. Làm theo ý riêng mình tức còn thấy có “ Cái Tôi”. Tất cả những việc làm nào còn vì “ Cái Tôi” mà làm thì đối với Chúa đều là việc ác. Chính bởi làm vì : Cái Tôi” là ác thế nên  Chúa Giê Su mới nói những ai theo Ngài thì phải bỏ mình đi “ Ai muốn theo ta thì hãy từ bỏ mình, vác thập giá hàng ngày mà theo Ta” ( Mt 16, 24 ).
Đi đường trọn lành thì nhất định là phải bỏ “ Cái Tôi” tức bỏ ý riêng mình đi. Có hiểu như thế mới thấy  sự chí lý của Thủ Bản khi nói rằng đường  Trọn Lành là trung thành từng nét với phương pháp Legio. Chúng ta biết phương pháp Legio được bao hàm trong  một hệ thống cố định và hệ thống cố định này có thể được ví như cái khuôn đúc gạch. Để gọi là khuôn thì nó cần phải được…cố định ở cả ba chiều = Chiều dọc, chiều ngang và chiều cao. Một viên gạch được đúc theo một cái khuôn khổ như thế thì viên nào cũng phải giống viên nào. Các viên gạch cần được đúc hoàn toàn như nhau về kích cỡ như thế thì thợ mới xây nên bức tường được. Còn giả thử như chẳng viên nào giống viên nào thì làm sao thợ có thể xây ?
Nói đến khuôn đúc gạch để chúng ta dễ hình dung ra một cái khuôn khổ khác là chính Đức Maria. Chúng ta được mời gọi để nên giống như Đức Mẹ và để có  được sự…nên giống ấy  thì cố nhiên  cần phải nép mình vào trong khuôn khổ của Legio là Hệ Thống Cố Định.
Trung thành từng nét với phương pháp Legio xem ra có vẻ …quá dễ và người ta dường như xem thường. Thế nhưng không phải như vậy bởi như đã nói đây là con đường nên Thánh  hết sức độc đáo của Legio. Con đường nên Thánh này có mục đích để cho ta nên giống Đức Maria có nghĩa trở nên là Hình Ảnh của Ngài “ Khi hội viên trở thành hình ảnh sống động của Đức Maria, Legio mới thực sự xem mình là Legio  của Đức Maria cùng san sẻ sứ mạng, được bảo đảm cùng Người thắng trận. Legio đưa Đức Maria đến cho mọi người và không bao lâu Đức Mẹ sẽ soi  sáng  cho trí họ và làm cho lòng họ thêm nhiệt thành” ( TB Sl 37 Chương 6 ).
Chỉ khi nào trở nên hình ảnh sống động của Đức Maria, chúng ta mới có thể thực sự xem mình là Legio của  Đức Mẹ. Đây là điều người Legio cần phải xét  lại mình = Chúng ta có thực là Legio của Đức Mẹ hay là của ai khác ? Đức Maria cưu mang và sinh hạ Chúa Ki Tô chính là do bởi hai tiếng Xin Vâng. Còn người Legio, có dám  Xin Vâng tức tuân giữ kỷ luật để Chúa được sinh ra và lớn lên ở trong ta hay không ?
Mục đích gia nhập Legio là để nên giống Đức Maria và có nên giống như thế  chúng ta mới có thể làm việc của Ngài tức đưa Chúa đến cho toàn thể nhân loại “ Nhờ đó con có thể đưa Chúa Ki Tô đến với thế giới và những linh hồn cần đến Người nhờ Đức Maria là Mẹ Chúa. Như vậy những linh hồn ấy và con sau khi thắng trận được ngự trị đời đời cùng Đức Maria trong vinh quang Thiên Chúa Ba Ngôi” ( Kinh Tuyên Hứa – TB  Sl 169 Chương 15 ).                                               (Chuyên Mục: 2. Legio Mariae )

                                               Hội viên đừng làm quan tòa
Nói hành nói xấu người khác là thói hư tật xấu của người đời không ai tránh khỏi và xét trên khía cạnh đạo đức  thì đây chính là điều mà Chúa Giê Su đã lên tiếng cảnh cáo “ Chớ xét đoán để khỏi bị xét đoán vì các ngươi xét đoán thế nào thì sẽ bị xét đoán lại như vậy” ( Mt  7, 1 -2 ).
Xét đoán sở dĩ là một cái tội bởi vì  nó đã lỗi  đức bác ái yêu thương. Một  đàng giới răn của Chúa đòi buộc ta phải yêu người như mình ta vậy. Thế nhưng một đàng  ta lại nói hành nói xấu người khác thì như vậy chẳng phải là  đã coi thường luật Chúa sao ?
Trong mọi trường hợp nói xấu người khác luôn luôn xảy ra  khi đối tượng ấy vắng mặt và như vậy đó là điều chẳng những bất công mà còn hèn hạ. Nói là bất công bởi vì đã không cho người ta cơ hội để biện minh. Còn hèn hạ vì không dám đối diện với sự thật.
Thủ Bản Legio là kim chỉ nam hướng dẫn cho các hoạt động Tông Đồ mà hội viên cần phải  tuân theo. Một trong những hướng dẫn ấy  đề cập đến  việc  không bao giờ được phép xét đoán người khác “ Hội viên Legio phải kính trọng người khác, Không phải chỉ bằng thái độ bên ngoài mà còn tận trong tâm hồn. Sứ mạng của Legio  không cho họ tự đặt mình làm quan tòa xét xử  anh em hoặc tự coi mình như một mẫu mực. Bắt anh em phải suy nghĩ phải hành động  rập khuôn như mình. Không nên  hồ đồ cho rằng  những ai không đồng quan điểm với mình. Không đón tiếp mình, thậm chí chống đối mình đều là những kẻ không ra gì” ( TB Sl 503 Chương 39 ).
Hội viên Legio phải kính trọng người khác không phải chỉ bằng thái độ bên ngoài mà phải tận trong tâm. Điều này đối với người đời khó ai có thể làm được. Thế nhưng đối với hội viên Legio  lại bắt buộc phải làm nếu không thì không xứng đáng là chiến sĩ của  Nữ Tướng Maria  trong trận chiến với kẻ thù gian hiểm Sa Tan ( St 3, 15 ).
Là hội viên Legio dù ở trong bất cứ cương vị nào hoặc cấp Hội Đồng nào  cũng không bao giờ  được  coi mình như là một thứ khuôn mẫu bắt người khác noi theo. Điều tệ hại nhất  trong xã hội cũng như tôn  giáo  đó là tự coi mình là một thứ mẫu mực để xét đoán người khác. Người CS  bởi đã lấy mẫu mực là  chủ nghĩa Mác, Lenine thế nên  đã ra tay giết hại hàng triệu người nhân danh chiêu bài đấu tranh giai cấp đồng thời ra sức triệt hạ tôn giáo cho đó là mê tín dị đoan…
Trong tôn giáo  thì người Pharisieu  cũng do nơi căn cứ vào các giới răn  để kết án người khác kể cả Chúa Giê Su họ cũng không tha. Người Pharisieu sử dụng luật như một thứ vũ khí để triệt hạ người khác. Đang khi đó Chúa Giê Su Đấng đến để kiện toàn lề luật tức là đem lại ý nghĩa đích thực của luật phải là luật yêu thương. Họ dẫn người đàn bà phạm tội ngoại tình  đến trước Chúa và hỏi Ngài phải đối xữ ra sao với kẻ tội lỗi này. Ngài trả lời” Ai trong các ngươi  cho rằng mình vô tội thì hãy ném đá kẻ này đi” ( Ga 8, 7 ).
Không ai trong chúng ta  là người vô tội và người Legio hơn ai hết chẳng dám nhận mình vô tội. Chính vì nhận mình là kẻ tội lỗi cần Lòng Thương Xót Chúa thế nên chúng ta mới gia nhập vào hàng ngũ này để được Thánh hóa mình  và nhờ sự kết hợp với Đức Maria để Thánh hóa người khác.
Đi trên con đường nên Thánh  tất nhiên không một ai tránh khỏi lầm lỡ vấp ngã. Mặc dầu vậy  có điều khác biệt rất lớn giữa người mang nơi mình ước vọng nên Thánh với người thế gian  là ở chỗ người ước muốn nên Thánh  mỗi khi vấp ngã lại cậy nhờ vào ơn Chúa để đứng dậy còn người đời thì buông xuôi trượt dài trong đường tội.
Đối với người  đàn bà phạm tội ngoại tình  kia đúng là theo luật thì phải bị ném đá cho chết  và Chúa Giê Su cũng biết đó là tội chứ đâu phải không ? Tuy nhiên với tình thương vô biên của Chúa, Ngài nói: Ta không kết án ngươi, thôi hãy về đi và đừng phạm tội nữa ( Ga 8, 11 ).
Tội đem đến sự chết nhưng nên nhớ xét đoán người khác cũng là tội và cũng đem đến sự chết.