Đừng đặt các linh mục lên
bệ thờ ....Cuối cùng đã có một vấn
đề mà giáo hội chia rẽ của chúng ta có thể nhất trí. Người Công giáo thuộc mọi
phái, bảo thủ hay tự do hay trung dung, đều thấy khó chịu về chủ nghĩa giáo
quyền. Từ Đức Giáo hoàng Phanxicô cho đến hàng ghế cuối trong nhà thờ, từ giáo
sư chủng viện cho đến các thừa tác viên, chúng ta đều đồng ý rằng chủ nghĩa
giáo quyền đang làm méo mó sứ mạng mục vụ của giáo hội. ..Và chủ nghĩa giáo quyền còn củng cố luận điệu của
những người theo chủ nghĩa thế tục rằng hàng giáo sỹ Công giáo chẳng khác gì
những nhân viên của giáo hoàng để áp đặt sự kiểm soát đạo đức ngặt nghèo bóp
nghẹt bản năng ham muốn tự do và vui thú của con người.
---- Vậy hãy chấm dứt chủ nghĩa giáo quyền trong giáo hội.
Chắc chắn là thế. Sự đồng thuận về chuyện này quá rõ ràng. Thế mà,
tôi còn nghe có tiếng nói, “đừng làm quá nhanh.”...Khối ung thư này đang làm
suy yếu thế giới Công giáo, từ các cộng đoàn địa phương cho đến các văn phòng
Vatican, nó đã có từ trong quá khứ và hiện đang tồn tại trong giáo hội, một
điều chúng ta cần xem xét thật kỹ lưỡng. Vậy thì hãy bắt tay xét nghiệm nó nào.......Chủ nghĩa giáo quyền chỉ cần nhìn là biết, dù là ở mức độ giáo xứ
hay trên hình biếm họa về giáo sỹ. Nhưng dù cho chúng ta có nhận ra, cũng khó
lòng mà định nghĩa nó.,,.....Tôi
thì thấy thế này. Chủ nghĩa
giáo quyền là một thái độ có trong nhiều (chứ không phải tất cả) giáo sỹ, những
người xem vị thế linh mục và giám mục của mình cao hơn vị thế môn đệ được rửa
tội của Chúa Giêsu Kitô đang có trong họ. Khi làm thế, nảy sinh một tâm thức
đặc quyền và tước vị trong suy nghĩ riêng và chung của các giáo sỹ. Điều này
làm nảy sinh một nhóm những con người “ưu tú” trong giáo hội, nghĩ rằng mình
không giống những tín hữu khác......Giáo
sỹ rơi vào cám dỗ này không
thể thấy được việc đó đang làm tê hoại nhân cách của họ, tê hoại khả năng kết
nối ở tầm mức con người với những nhóm người khác trong đoàn dân Chúa. Trong
tất cả những hoa trái chua cay của chủ nghĩa giáo quyền, thì việc mất khả năng
kết nối với tha nhân này, chính là thứ gây tai hại nhất.
-- Khi một người được truyền chức thánh có thái độ bề trên với các
giáo dân và những người mình gặp gỡ, thì vấn đề không còn đơn giản. Dạng mất
liên kết này có thể là thứ tiêu diệt hết những nỗ lực của một linh mục muốn xây
dựng tâm thức cộng đoàn trong giáo xứ....Và thường giáo dân khó
lòng thấy thoải mái với một linh mục giáo quyền. Nói đơn giản là họ không thấy
được cách tiếp cận của một người “cha”. Cũng có thể nói như thế về các giám mục
quá dễ dãi nghĩ mình như những quân vương một vùng được Chúa tuyển chọn. Mối
liên hệ của các giám mục này với các linh mục và giáo dân không còn là cung
cách của một mục tử.
Nơi họ không có mùi chiên.
Mà đó lại chính là những gì mà các giáo sỹ giáo quyền muốn. Họ tin rằng
xa cách một chút với những người không có chức thánh là một việc phù hợp và
đúng đắn. Dĩ nhiên, linh mục không cần phải chén thù chén tạc xuề xòa với giáo
dân, mối liên hệ linh mục-giáo dân cần có sự trưởng thành và cẩn trọng. Hầu hết
các giáo sĩ đều biết những đòi hỏi của đàn chiên mình. Chắc chắn, các giáo sĩ
cần phải bảo vệ sự riêng tư của mình, và tìm thời gian “ở một mình.” Nhưng bản
chất của chủ nghĩa giáo quyền là phóng đại nhu cầu này. Nó nảy sinh sự giả tạo
và cấp bậc giữa các giáo sỹ và giáo dân. Như thế, là thiếu mất đi sự gì đó...Các linh mục và giám mục (thậm chí là phó tế) dần thấy uy thế của
mình trong việc cử hành bí tích và giảng dạy, chính là nền tảng căn tính của
mình. Và khi đó, họ không còn thấy được sự thật rằng sức mạnh của Giáo hội xét
tận cùng chính là nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Họ nói, “Chúng tôi là giáo
sỹ, anh chị em thì không.”.....Nhiều năm trước, khi làm tổng đại diện, tôi có
nói chuyện với một viên chức giáo dân cấp bậc cao trong giáo phận, ông sợ rằng
mình đang ngày càng dấn vào hệ thống này, sợ mình trở nên “như giáo sỹ” Tôi bảo
ông đừng lo. Việc ông cảm nhận được mối nguy đó, chính là cái bảo vệ cho ông
rồi. Chúng tôi cũng thấy được nhiều đồng nghiệp giáo dân của ông có vẻ như
không thấy được mối nguy đó. Những nhân viên mục vụ giáo dân này nghĩ mình là
người trong hàng ngũ giáo sỹ. Và có thể nói đúng là thế. Như những người mục vụ
được truyền chức thánh, lòng trung thành ban đầu của họ giờ hướng về giáo hội
và thể chế hơn là về tin mừng và các tín hữu mà họ phục vụ. Thế nên, khối
u chủ nghĩa giáo quyền, không chỉ giới hạn trong các giám mục, linh mục, phó
tế. ....Văn hóa giáo giáo sỹ chính là cái nôi nảy sinh
căn bệnh chủ nghĩa giáo quyền. Và hai cái này là hai thứ khác biệt nhau. Chúng
ta phải hiểu được chuyện này, trước khi tìm cách mổ xẻ thêm về khối u chủ nghĩa
giáo quyền. Hầu hết những dân lành nghề, chuyên nghiệp, đều phát triển một dạng
văn hóa, một kiểu cư xử và lời nói đặc thù thể hiện đặc tính của những người
trong hội. Một nền văn hóa như thế có thể vun đắp một tinh thần đoàn thể lành
mạnh.
Thế nên văn hóa giáo sỹ không phải là vấn đề. Các linh mục thường
nói về “huynh đệ chức thánh.” Họ cùng chia sẻ một nền đào tạo chủng viện. Họ
hiểu được niềm vui và nỗi buồn trong việc mục vụ, sự tự do và cô đơn của đời
sống độc thân, và trách nhiệm lớn lao của việc rao giảng Lời Chúa.
Nhưng một văn hóa giáo sỹ lành mạnh thì vun đắp sự khiêm nhượng và
lòng biết ơn trong tâm hồn các phó tế, linh mục, và giám mục. Nó dẫn đưa người
linh mục nói rằng, “Tôi là linh mục, nhờ ơn Chúa. Nhưng trước hết, tôi là môn
đệ được rửa tội, cũng cần được mục vụ, cần được thương xót và tình bạn của các
giáo dân.” ,..Tuy nhiên, khi văn hóa
giáo sỹ thổi phòng vai trò và tầm hiểu biết của các thừa tác viên có chức thánh
trong đời sống giáo hội, thì nó chính là mảnh đất màu mở để khối u chủ nghĩa
giáo quyền lớn mạnh....Vậy chúng ta có thể làm gì để chấm dứt chủ nghĩa giáo
quyền? Những bước sau sẽ xử lý khối u, hay ít nhất là giảm nhẹ đi chủ nghĩa
giáo quyền:......Các giám mục, linh mục
và phó tế được kêu gọi bởi Tin mừng, và bởi Đức Giáo hoàng Phanxicô, phải thấy
được tư cách môn đệ và việc phục vụ là nền nền tảng cho mục vụ chức thánh. Phép
rửa cho họ mọi phẩm giá họ cần. Nhiều linh mục hiểu điều này. Nhiều người vẫn
chưa hiểu. Vậy các chủng viện cần dạy cho các chủng sinh rằng tư cách môn đệ
được rửa tội bén rễ trong lời nguyện chính là nền tảng căn bản cho việc mục vụ
linh mục.....Một số giáo sĩ nhất quyết rằng người ta phải gọi
mình là “cha” hoặc là “đức cha.” (Trong tiếng Anh, có thể gọi linh mục là
Father hoặc Monsignor, có thể gọi các giám mục hồng y với những tước rất uy
quyền như Excellency hoặc Eminence). Các tước hiệu có vai trò của nó, nhưng ta
không cần khăng khăng phải dùng nó. Chúng ta có thể thấy buồn cười khi một giáo
dân cứ khăng khăng người ta phải gọi mình là bác sĩ, tiến sỹ, giáo sư, thẩm
phán. Gọi một bác sĩ là là bác sĩ, thì hợp lý khi ta ở trong phòng khám hay
bệnh viện, và gọi một linh mục là cha cũng hợp lý khi ở trong bối cảnh làm việc
giáo xứ. Nhưng hầu hết mọi người sẽ nhíu mày khi người ta cứ nhất quyết lúc nào
mình cũng phải được gọi bằng tước danh....Xem lại đời sống độc thân
khiết tịnh bắt buộc. Đúng là chúng ta cũng thấy chủ nghĩa giáo quyền trong hàng
giáo sỹ không độc thân của các giáo Đông phương. Nhưng những gánh nặng kéo theo
đời sống độc thân, dẫn đến việc một số giáo sỹ thấy cần tước vị và đặc quyền,
những nét đặc thù của chủ nghĩa giáo quyền.......Nhưng có người sẽ lập
luận, chẳng phải chỉ trích chủ nghĩa giáo quyền là công kích hàng giáo sỹ? Lập
luận của chất vấn này như sau: Khó lòng cường điệu hóa phẩm giá và sức mạnh
thiêng liêng của chức linh mục. Cứ nghĩ về việc giáo dân thấy hình ảnh người
linh mục khi dâng thánh lễ và tha tội. Một ơn gọi quá cao cả, đòi buộc người
linh mục phải là người “khác hẳn.” Và khi “khác hẳn” thì cũng đi kèm với trách
nhiệm và đặc quyền.;;;;Nói cách khác, lối nghĩ này chấp nhận chủ nghĩa
giáo quyền như là bản chất tự nhiên trong người linh mục Công giáo, bởi họ
thuộc về một đẳng cấp thiêng liêng cao quý. Và dù cao quý thì đi kèm với bổn
phận, nhưng nó còn có sự vênh vang nữa...Đức Giáo hoàng Phanxicô
đã đáp lại lối nghĩ này bằng cách nói rằng một linh mục không phải là một người
được tách riêng hẳn ra với cộng đoàn. Đức Giáo hoàng tin rằng linh mục và giám
mục phải có một tâm hồn sứ mạng, một điều tương phản với kiểu tâm hồn giáo
quyền. Trong tông huấn Evangelii Gaudium (Niềm vui của Tin mừng), Đức Phanxicô
đã viết rằng “một tâm hồn sứ mạng không bao giờ khép kín trong bản thân, không
bao giờ lui về nơi an toàn riêng của mình, không bao giờ chấp nhận sự khắc
nghiệt và thủ thế. Tâm hồn sứ mạng nhận ra rằng nó phải lớn lên trong nhận thức
Tin mừng và trong nhận thức về những đường lối của Thần Khí, và nó luôn luôn
làm tốt hết sức mình, ngay cả khi dẫm vào bùn đất trên đường.”....Đúng, hãy chấm dứt chủ nghĩa giáo quyền và theo gương của Đức Giáo
hoàng không giáo quyền của chúng ta. Ngài liên tục nhắc nhở các giám mục, linh
mục và phó tế rằng họ là những người dẫn đường cho đoàn dân lữ hành. Họ là
những mục tử của lòng thương xót, với đôi giày lấm lem bùn đất. ....J.B. Thái Hòa chuyển dịch
Nguồn tin: Phanxico
Hệ Thống Cố Định Legio trong đời sống tâm linh
Để được
chính thức đứng vào hàng ngũ hoạt động Legio. Người hội viên cần phải hứa tuân
giữ kỷ luật “ Trông cậy Chúa, nhận con, dùng con và hôm nay biến sự
yếu đuối của con thành sức mạnh. Con xin đứng vào hàng ngũ Legio và dám
xin tuyên hứa trung thành phục vụ. Con xin hoàn toàn tuân kỷ luật. Kỷ luật liên
kết con với đồng bạn. Tạo chúng con thành một đạo quân” ( TB Sl 170 – Chương 15
).
Khi tuyên
hứa là chúng ta hứa với Chúa Thánh Thần, bởi đó cho nên hội viên dù ở bất cứ
cương vị nào cũng không thể phản bội. Kỷ luật trong Legio hết sức chặt chẽ và
kỷ luật ấy được quy định trong một hệ thống gọi là Hệ Thống Cố Định “ Hội viên
không có quyền thay đổi các quy luật hay cách thức thực hành. Hệ thống mô
tả đây là hệ thống của Legio. Mỗi thay đổi dù nhỏ bé đến đâu cũng
không tránh khỏi được biến đổi khác và không bao lâu tổ chức Legio chỉ
còn là hữu danh vô thực. Một khi biết đơn vị nào thay đổi như vậy Legio sẽ
không ngần ngại khai trừ đơn vị ấy dù họ đã thể hiện những công tác có giá trị”
( TB Sl 241 – Chương 20 ).
Thủ Bản
quy định những điều không được phép thay đổi = Kinh nguyện không thay đổi “
Phải coi các kinh nguyện của Legio như cố định. Các lời cầu các Thánh cũng thế,
không nên thêm bớt dù là thêm vị Thánh của nước mình, địa phương hoặc của riêng
mình kể cả các sửa chữa hoặc thêm bớt đang tranh luận” ( TB Sl 258)
Chương 19 ). Về chương trình họp cũng không được thay đổi ( TB Sl 217 Chương 19
). Đã gọi là quy luật thì không được phép thay đổi dù chỉ là những chi
tiết nhỏ bé chẳng hạn trong cách trưng dọn bàn thờ Đức Mẹ “ Mỗi phiên họp đều
sắp đặt như nhau. Hội viên ngồi quanh chiếc bàn dài, đầu bàn dọn một bàn thờ
nhỏ. Trên chiếc khăn trắng khổ rộng ta đặt tượng Đức Mẹ Vô Nhiễm ( Mẫu
hay làm phép lạ ) cao độ sáu tấc, hai bên hai bình hoa tươi. Trước mặt tượng
đặt hai chân đèn với nến sáng. Cành Vexillum được đặt trước tượng độ 15 phân và
xê về bên phải cũng quãng chừng ấy” ( TB Sl 189 Chương 18 ) ).
Chẳng
những Thủ Bản quy định những chi tiết buộc phải tuân theo mà còn hướng
dẫn cách thực hiện “ Nơi nào muốn tránh cơn gió thổi tắt ngọn nến có thể
dùng bầu thuỷ tinh để giữ ngọn nến nhưng không nên che khuất thân cây nến” ( TB
Sl 189 Chương 18 ).
Những chi
tiết buộc tuân theo ấy hết sức cụ thể, chẳng hạn chỉ được phép làm Dấu
Thánh Giá lúc nào trong trường hợp nào…Cha linh giám hoặc trưởng đọc Kinh
Mân Côi chục thứ nhất, thứ ba và thứ năm, Ngoài những quy định cụ thể chi
tiết ấy ra Legio còn có quy luật cẩn mật, luật thi hành công tác ít nhất
hai giờ mỗi tuần, luật về bầu cử trong các cấp Hội Đồng v.v…
Đề ra
luật thì dĩ nhiên cũng phải có người chịu trách nhiệm và trách nhiệm ấy trước
hết thuộc về người trưởng “ Trưởng phải nhớ mình là đại diện của Legio để áp
dụng đường lối Legio đến từng chi tiết. Làm đại diện không đúng trách nhiệm tức
là thất tín với Legio. Toà án quân sự trần gian gọi đây là tội phản quốc và can
phạm phải bị kết án rất nặng nề” ( TB Sl 371 Chương 34 ).
Việc tuân
giữ kỷ luật là trách nhiệm của người trưởng. Thế nhưng để thi hành nhiệm vụ này
thì cần có sự lãnh đạo của các cấp Hội Đồng “ Thành lập các cấp Hội Đồng của
Legio chính là để bảo vệ nguyên vẹn. Bằng mọi giá các Hội Đồng này phải trung
thành với nhiệm vụ đã nhận lãnh “ Hệ thống Legio là một hệ thống đẹp đẽ nhất (
Đức Gioan XXIII ).
“ Ta phải
nhận nguyên vẹn hay vứt bỏ tất cả: bớt đi chỉ sinh yếu nhược, cắt xén chỉ làm
què quặt. Nếu nhận tất cả chỉ trừ một điểm thôi là vô ý thức vì điểm nào cũng
như điểm nào, có nó mới nên trọn vẹn” ( Đức hồng y Newman – Khái luận về phát
triển – TB Sl 244 Chương 20 ).
Những ai
không hiểu về Legio sẽ cho rằng hội đoàn này quá ….cứng ngắc, bắt phải
tuân thủ đến cả những chi tiết nhỏ nhặt. Thế nhưng Thủ Bản cho biết tất cả sáu
vị Giáo Hoàng đều đã duyệt cuốn Thủ Bản và cho rằng không cần gì phải thay đổi.
Chẳng những không thay đổi mà đức Thánh cha Gioan XXIII còn nói “ Hệ Thống
Legio là hệ thống đẹp nhất”. Một khi các vị lãnh đạo tối cao của Giáo Hội
đã thấy không có chi cần thay đổi Thủ Bản thì làm sao hội viên chúng
ta lại cứ thay đổi điều này điều kia ?..Sở dĩ có
những vi phạm kỷ luật Legio như hiện nay đang thấy theo tôi đó là vì
người ta đã không nhận ra được con đường nên Thánh hết sức độc đáo của
Legio “ Theo ý Legio sự trọn lành của hội viên không dựa vào chỗ tự mãn vì
những kết quả thực sự hay bề ngoài nhưng chỉ căn cứ vào lòng trung thành từng
nét với phương pháp Legio. Hội viên Legio chỉ xứng đáng với danh xưng khi họ
biết tuân phục quy chế” ( TB Sl 142 Chương 11 ).
Con đường
trọn lành của Đức Ki Tô là biết vâng theo Thánh Ý Thiên Chúa “ Chẳng phải mỗi
kẻ nói cùng Ta rằng = Lạy Chúa, lạy Chúa mà vào được Nước Trời đâu nhưng
chỉ những kẻ biết vâng theo Thánh Ý Cha Ta mà thôi. Trong ngày đó nhiều người
sẽ nói cùng Ta rằng = Lạy Chúa, lạy Chúa chúng tôi há chẳng từng nhân danh Chúa
mà nói tiên tri sao ? Nhân danh Chúa mà đuổi quỷ sao và nhân danh Chúa mà làm
nhiều việc quyền năng sao ? Khi ấy Ta sẽ công bố với họ rằng Ta chẳng hề biết
các ngươi. Hãy lìa khỏi mặt Ta, hỡi những quân gian ác” ( Mt 7, 21 -23 ).
Tại sao
những việc người đời cho là lớn lao cả thể như nói tiên tri, đuổi quỷ, làm phép
lạ v.v.. nhưng đối với Chúa lại là những việc làm ác ? Lý do bởi vì tất cả
những việc ấy người ta chỉ làm theo ý riêng mình chứ chẳng phải theo ý Chúa.
Làm theo ý riêng mình tức còn thấy có “ Cái Tôi”. Tất cả những việc làm nào còn
vì “ Cái Tôi” mà làm thì đối với Chúa đều là việc ác. Chính bởi làm vì : Cái
Tôi” là ác thế nên Chúa Giê Su mới nói những ai theo Ngài thì phải bỏ
mình đi “ Ai muốn theo ta thì hãy từ bỏ mình, vác thập giá hàng ngày mà theo
Ta” ( Mt 16, 24 ).
Đi đường
trọn lành thì nhất định là phải bỏ “ Cái Tôi” tức bỏ ý riêng mình đi. Có hiểu
như thế mới thấy sự chí lý của Thủ Bản khi nói rằng đường Trọn Lành
là trung thành từng nét với phương pháp Legio. Chúng ta biết phương pháp Legio
được bao hàm trong một hệ thống cố định và hệ thống cố định này có thể
được ví như cái khuôn đúc gạch. Để gọi là khuôn thì nó cần phải được…cố định ở
cả ba chiều = Chiều dọc, chiều ngang và chiều cao. Một viên gạch được đúc theo
một cái khuôn khổ như thế thì viên nào cũng phải giống viên nào. Các viên gạch
cần được đúc hoàn toàn như nhau về kích cỡ như thế thì thợ mới xây nên bức
tường được. Còn giả thử như chẳng viên nào giống viên nào thì làm sao thợ có
thể xây ?
Nói đến
khuôn đúc gạch để chúng ta dễ hình dung ra một cái khuôn khổ khác là chính Đức
Maria. Chúng ta được mời gọi để nên giống như Đức Mẹ và để có được sự…nên
giống ấy thì cố nhiên cần phải nép mình vào trong khuôn khổ của
Legio là Hệ Thống Cố Định.
Trung
thành từng nét với phương pháp Legio xem ra có vẻ …quá dễ và người ta dường như
xem thường. Thế nhưng không phải như vậy bởi như đã nói đây là con đường nên
Thánh hết sức độc đáo của Legio. Con đường nên Thánh này có mục đích để
cho ta nên giống Đức Maria có nghĩa trở nên là Hình Ảnh của Ngài “ Khi hội viên
trở thành hình ảnh sống động của Đức Maria, Legio mới thực sự xem mình là
Legio của Đức Maria cùng san sẻ sứ mạng, được bảo đảm cùng Người thắng
trận. Legio đưa Đức Maria đến cho mọi người và không bao lâu Đức Mẹ sẽ
soi sáng cho trí họ và làm cho lòng họ thêm nhiệt thành” ( TB Sl 37
Chương 6 ).
Chỉ khi
nào trở nên hình ảnh sống động của Đức Maria, chúng ta mới có thể thực sự xem
mình là Legio của Đức Mẹ. Đây là điều người Legio cần phải xét lại
mình = Chúng ta có thực là Legio của Đức Mẹ hay là của ai khác ? Đức Maria cưu
mang và sinh hạ Chúa Ki Tô chính là do bởi hai tiếng Xin Vâng. Còn người Legio,
có dám Xin Vâng tức tuân giữ kỷ luật để Chúa được sinh ra và lớn lên ở trong
ta hay không ?
Mục đích
gia nhập Legio là để nên giống Đức Maria và có nên giống như thế chúng ta
mới có thể làm việc của Ngài tức đưa Chúa đến cho toàn thể nhân loại “ Nhờ đó
con có thể đưa Chúa Ki Tô đến với thế giới và những linh hồn cần đến Người nhờ
Đức Maria là Mẹ Chúa. Như vậy những linh hồn ấy và con sau khi thắng trận được
ngự trị đời đời cùng Đức Maria trong vinh quang Thiên Chúa Ba Ngôi” ( Kinh
Tuyên Hứa – TB Sl 169 Chương 15 ).
(Chuyên Mục: 2. Legio Mariae )
Hội viên đừng làm quan tòa
Nói hành nói xấu người
khác là thói hư tật xấu của người đời không ai tránh khỏi và xét trên khía cạnh
đạo đức thì đây chính là điều mà Chúa Giê Su đã lên tiếng cảnh cáo “ Chớ
xét đoán để khỏi bị xét đoán vì các ngươi xét đoán thế nào thì sẽ bị xét đoán
lại như vậy” ( Mt 7, 1 -2 ).
Xét
đoán sở dĩ là một cái tội bởi vì nó đã lỗi đức bác ái yêu thương.
Một đàng giới răn của Chúa đòi buộc ta phải yêu người như mình ta vậy.
Thế nhưng một đàng ta lại nói hành nói xấu người khác thì như vậy chẳng
phải là đã coi thường luật Chúa sao ?
Trong
mọi trường hợp nói xấu người khác luôn luôn xảy ra khi đối tượng ấy vắng
mặt và như vậy đó là điều chẳng những bất công mà còn hèn hạ. Nói là bất công
bởi vì đã không cho người ta cơ hội để biện minh. Còn hèn hạ vì không dám đối
diện với sự thật.
Thủ
Bản Legio là kim chỉ nam hướng dẫn cho các hoạt động Tông Đồ mà hội viên cần
phải tuân theo. Một trong những hướng dẫn ấy đề cập đến
việc không bao giờ được phép xét đoán người khác “ Hội viên Legio phải
kính trọng người khác, Không phải chỉ bằng thái độ bên ngoài mà còn tận trong tâm
hồn. Sứ mạng của Legio không cho họ tự đặt mình làm quan tòa xét xử
anh em hoặc tự coi mình như một mẫu mực. Bắt anh em phải suy nghĩ phải hành
động rập khuôn như mình. Không nên hồ đồ cho rằng những ai
không đồng quan điểm với mình. Không đón tiếp mình, thậm chí chống đối mình đều
là những kẻ không ra gì” ( TB Sl 503 Chương 39 ).
Hội
viên Legio phải kính trọng người khác không phải chỉ bằng thái độ bên ngoài mà
phải tận trong tâm. Điều này đối với người đời khó ai có thể làm được. Thế
nhưng đối với hội viên Legio lại bắt buộc phải làm nếu không thì không
xứng đáng là chiến sĩ của Nữ Tướng Maria trong trận chiến với kẻ
thù gian hiểm Sa Tan ( St 3, 15 ).
Là
hội viên Legio dù ở trong bất cứ cương vị nào hoặc cấp Hội Đồng nào cũng
không bao giờ được coi mình như là một thứ khuôn mẫu bắt người khác
noi theo. Điều tệ hại nhất trong xã hội cũng như tôn giáo đó
là tự coi mình là một thứ mẫu mực để xét đoán người khác. Người CS bởi đã
lấy mẫu mực là chủ nghĩa Mác, Lenine thế nên đã ra tay giết hại
hàng triệu người nhân danh chiêu bài đấu tranh giai cấp đồng thời ra sức triệt
hạ tôn giáo cho đó là mê tín dị đoan…
Trong
tôn giáo thì người Pharisieu cũng do nơi căn cứ vào các giới
răn để kết án người khác kể cả Chúa Giê Su họ cũng không tha. Người
Pharisieu sử dụng luật như một thứ vũ khí để triệt hạ người khác. Đang khi đó
Chúa Giê Su Đấng đến để kiện toàn lề luật tức là đem lại ý nghĩa đích thực của
luật phải là luật yêu thương. Họ dẫn người đàn bà phạm tội ngoại tình đến
trước Chúa và hỏi Ngài phải đối xữ ra sao với kẻ tội lỗi này. Ngài trả lời” Ai
trong các ngươi cho rằng mình vô tội thì hãy ném đá kẻ này đi” ( Ga 8, 7
).
Không
ai trong chúng ta là người vô tội và người Legio hơn ai hết chẳng dám
nhận mình vô tội. Chính vì nhận mình là kẻ tội lỗi cần Lòng Thương Xót Chúa thế
nên chúng ta mới gia nhập vào hàng ngũ này để được Thánh hóa mình và nhờ
sự kết hợp với Đức Maria để Thánh hóa người khác.
Đi
trên con đường nên Thánh tất nhiên không một ai tránh khỏi lầm lỡ vấp
ngã. Mặc dầu vậy có điều khác biệt rất lớn giữa người mang nơi mình ước
vọng nên Thánh với người thế gian là ở chỗ người ước muốn nên Thánh
mỗi khi vấp ngã lại cậy nhờ vào ơn Chúa để đứng dậy còn người đời thì buông
xuôi trượt dài trong đường tội.
Đối
với người đàn bà phạm tội ngoại tình kia đúng là theo luật thì phải
bị ném đá cho chết và Chúa Giê Su cũng biết đó là tội chứ đâu phải không
? Tuy nhiên với tình thương vô biên của Chúa, Ngài nói: Ta không kết án ngươi,
thôi hãy về đi và đừng phạm tội nữa ( Ga 8, 11 ).
Tội
đem đến sự chết nhưng nên nhớ xét đoán người khác cũng là tội và cũng đem đến
sự chết.